Triển lãm ảnh của nhà sử học Dương Trung Quốc
Nguồn: http://quechoa.info/2010/01/30/ha-noi-xua/
“Métropole” không phải là khách sạn ra đời sớm nhất nhưng
chắc chắn là khách sạn có truyền thống lâu bền và tiêu biểu nhất gắn với
Hà Nội. Buổi đầu Tây chiếm đóng, một số quán trọ đã xuất hiện tập trung
bên Bờ Hồ và dọc Phố Paul Bert (nay là Tràng Tiền).
Ở Sài Gòn, chỉ một năm sau khi buộc nhà Nguyễn “nhượng
đất”, viên Phó đô đốc thực dân Lagrandière đã ban hành quyết định thành
lập một Vườn Bách Thảo và Bách Thú vào ngày 10/6/1863. Còn ở Hà Nội, một
khu vườn tương tự được khởi công vào năm 1890, tức là chỉ 2 năm sau khi
Hà Nội được vua Đồng Khánh trao cho Pháp làm thành phố nhượng địa.
Ban đầu nó chỉ là một vườn thí nghiệm, được trao cho một
viên dược sĩ hải quân biệt phái về Sở Nông lâm để nghiên cứu phương thức
di thực các loại thảo mộc từ nước ngoài, nhất là từ các thuộc địa châu
Phi qua để bổ sung cho các loại cây trồng đô thị và phát triển trồng
trọt Dần dà cùng với các giống cây, ngày một phong phú là một số thú
nuôi thích hợp như hươu nai, đặc biệt thu hút người xem là gấu, cọp và
voi cùng nhiều loại chim muông nên vườn còn đựoc gọi là Bách Thú.
Ban đầu, khu vườn cây trồng và nuôi chim thú này chỉ là một
cảnh quan hỗ trợ cho không gian của Phủ Toàn quyền Đông Dương, trên đất
của các làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp và Khán Xuân.
Không gian này bao lấy môt gò núi đất nhỏ mà dân vẫn quen
gọi là Núi Nùng, nhưng tên dân gian của nó là Núi Sưa vì trên đó mọc
nhiều loại cây này. Trên lưng núi, lại có đền thờ Huyền Thiên Hắc Đế,
tương truyền là người giúp nhà Lý đánh giặc phương Nam, nên được phong
làm thành hoàng của mấy làng trong khu vực. Ngay chân núi lại có mấy hồ
nước hơn hẳn vườn ở Sài Gòn. Ở đây từng có một ngôi “đền Hàng Hoa” rất
đẹp
“Vui nhất là Chợ Đồng Xuân
Thức gì cũng có xa gần bán mua”
Thức gì cũng có xa gần bán mua”
Câu ca dao này hẳn ra đời muộn hơn năm 1888 là thời điểm
chính quyền Pháp bắt tay vào quản lý Hà Nội như một thành phố “nhượng
địa” và ngày 6/4/1888 đã ký một quyết định thành lập một ngôi chợ mới.
Hồi xưa, đồng hồ còn là vật dụng hiếm quý nên Hà Nội chỉ có
dăm cái đồng hồ công cộng để báo giờ cho dân chúng. Tuy nhiên, chỉ duy
nhất một cái đặt chơ vơ giữa khoảng không gian rộng, trên một cái cột
gang, tựa như những cột đèn khá phổ biến đương thời.
Hoàng thành Thăng Long qua các triều đại có thể to nhỏ khác
nhau, vòng thành có thể rộng hẹp khác nhau, nhưng trên trục hoàng đạo
nối từ Cửa Bắc đến Cửa Nam có một địa điểm không khi nào thay đổi, đó
chính là Điện Kính Thiên.
Một góc điện Kính thiên-Công trình phòng thủ của quân Pháp
Những nhịp cầu rất đặc trưng in trên nền trời giúp chúng ta
dễ dàng định vị được con đường được chụp trên tấm ảnh này. Người Pháp
gọi chung con đường chạy dọc bờ sông Hồng này là “Quai de Commerce” (Kè
Thương mại). Hãy để ý lúc này chưa có đê dọc Sông Hồng
Phố hàng Đào. Rue de la Soie – tên gọi chính thức bằng
tiếng Pháp trong bản đồ hành chính thành phố Hà Nội – đủ để giải thích
tên gọi “Hàng Đào”. Đây chính là phố bán các loại vải vóc, tơ lụa mà có
lẽ là loại vải màu điều (đào/đỏ).
Ngôi nhà ngoài cùng bên phải ảnh chính là nhà số 4 nơi cư
trú của gia đình cụ Cử Lương Văn Can. Ngôi nhà 2 tầng có lan can màu
trắng cách 2 ngôi nhà tiếp theo là nhà số 10 nơi mở trường Đông Kinh
Nghĩa Thục.
Điểm rẽ của 2 tuyến xe điện, một đi thẳng vào Hàng Đào đi tiếp tới Chợ Đồng Xuân; một rẽ trái theo phố Hàng Gai lên Cửa Nam
Mã Mây xưa kia là 2 phố với hai đặc trưng hàng nghề là Hàng Mây ở đoạn gần Hàng Buồm và Hàng Mã Vĩ ở đoạn sát Hàng Bạc
Người Pháp gọi tên phố Mã Mây là Phố quân Cờ Đen để ghi
nhận nỗi kinh hoàng của cả Tây lẫn ta với đám quan quân đến từ Phương
Bắc hoành hoành và từng trú quân tại đây.
Nếu
chọn một công trình kiến trúc nào xưa nhất, lại ít thay đổi nhất của Hà
Nội còn lại cho đến nay thì đó chính là Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Nhà Thờ Lớn được khởi công vào năm 1884 và khánh thành kịp
vào dịp Lễ Thiên Chúa giáng sinh năm 1887. Kể từ đó cho đến nay, kiến
trúc dường như không thay đổi. Xem các tấm hình cách đây đã trên dưới
một thế kỷ thì thấy rõ điều ấy. Có chăng là sự thay đổi cảnh quan và con
người mà thôi.
Nhờ
cuộc xổ số năm 1884 thu đuợc 10 vạn đồng, Nhà thờ Thánh Joseph đã được
khởi công ngay trong năm đó và được xây dựng như diện mạo ngày nay và
được khánh thành ngày 23/12/1887, một ngày trước dịp Thiên Chúa giáng
sinh.
Phố Cầu Gỗ rất gần Hồ Gươm nhưng bị khuất bởi một dẫy phố
nằm kế bên Hồ, có một lối thông sang hồ cũng được coi là một phố (phố
Hoàn Kiếm) và đó chính là vị trí của một chiếc cầu làm bằng gỗ bắc qua
một con lạch nối Hồ Hoàn Kiếm với một hồ nước không nhỏ có tên là “Thái
Cực”, sau khi bị lấp đã trở thành không gian của các phố nằm phía sau
dẫy nhà lẻ của phố Hàng Đào (khu vực nay là chợ Hàng Bè).
Cảnh quan Hồ Gươm nhìn từ bờ phía Đông. Dòng lưu bút ghi
bên lề tấm bưu ảnh (ngày 10/11/1902) cho biết tấm hình này phải được
chụp trước thời gian nó được in thành bưu ảnh và được một khách hàng sử
dụng.
Cầu
Doumer, nay gọi là Cầu Long Biên khai thông từ năm 1902. Nhưng thưở
đầu, mối quan tâm của nhà đầu tư chưa phải ưu tiên giành cho Hà Nội mà
tuyến đường sắt chạy từ Cảng Hải Phòng chỉ vượt con Sông Cái (hay Sông
Hồng) để đi thẳng lên Vân Nam xâm nhập vào thị trường vùng Tây Nam của
cái quốc gia khổng lồ mà tất cả các đế quốc Âu Tây đang mong ước đựợc dự
“bữa cỗ Trung Hoa”.
Tại
Hotel Grand Café đã có những buổi chiếu bóng đầu tiên rồi dần dần mới
ra rạp chuyên cinéma.Bộ phim đầu tiên có tên là “Thần Cọp” và được trình
chiếu vào 8/1920.Tại phố Nguyễn Xí, có một cái cổng nhỏ đi vào một rạp
chiếu phim lấy tên là Palace
Nếu
như rạp chiếu bóng lớn nhất và cũng tồn tại tương đối lâu bền nhất là
Rạp Palace trên đường Paul Bert (nay là rạp Công nhân trên phố Tràng
Tiền), chuyên chiếu các bộ phim do Hãng Gaumont sản xuất, thì sau đó
không lâu, một rạp chuyên chiếu phim của Hãng Pathé cũng xuất hiện tại
khu đất trống bên cạnh đền Bà Kiệu, trước cửa đền Ngọc Sơn.
Năm
1918, Trường nữ Sư phạm Hà Nội được thành lập, lúc đầu học ở Hàng Vôi
sau chuyển ra Lò Đúc. Năm 1925, trường đổi thành Nữ Trung học Hà Nội
(Collège des Jeunes Filles) ở phố Félix Faure (nay là Bộ Tư pháp ở phố
Trần Phú). Địa điểm này bị Tây lấy làm Trường Nữ Trung học Pháp, đổi lại
cho xây Trường Nữ Trung học Việt Nam ở phố Hàng Bài.Nay là trường THCS
Trưng Vương
Tại
ngã sáu, nơi giao nhau của nhiều đường phố: Hàng Than, Quán Thánh, Phan
Đình Phùng, Hàng Lược, Hàng Giấy và Hàng Đậu có một công trình xây dựng
khá độc đáo, lúc nào cũng đóng cửa kín mít.
Tường của công trình này xây bằng đá hộc, những chấn song
sắt và những vòm cửa sổ, cùng cái mái tôn của một toà tháp cao tới 25
mét tính đến chóp, gây cảm giác nặng nề như chốn ngục thất đầy bí ẩn.
Nhưng thực ra đó chỉ là một tháp nước (chateau-d’eau) trong
kết cấu của hệ thống cung cấp nước cho đô thị được xây dựng từ cuối thế
kỷ XIX. Có lẽ do trục đường huyết mạch từ cầu Doumer (Long Biên) trực
chỉ vào khu thành cổ là nơi đóng binh và đầu não bộ máy cai trị của
người Pháp, nên người ta quen gọi đây là “tháp nước Hàng Đậu”.
Sách “Đại Nam nhất thống chí” của triều Nguyễn đã xác định
“Phố Đông Hà bán chiếu trơn”. Đông Hà là tên gọi cái cửa ô mà con đường
này từ trong phố đi ra sông Hồng, cái cửa ô này dân thường gọi quen hơn
là Ô Quan Chưởng. Đúng là thời xa xưa ở đây có bán chiếu cói nên người
Pháp cũng từng định danh là “Rue des Nattes en joncs” ( Phố chiếu cói)
“Hàng Chiếu” có lẽ là cách định danh đúng hơn cả nếu so với
2 cái tên đã từng có, một do Tây đặt là “Jean Dupuis” và một theo cách
gọi của dân là “Phố Mới”.
Cho
đến nay cái từ “Ngang” của phố Hàng Ngang vẫn là một câu hỏi về ngữ
nghĩa vì nó không phải là một sản vật như các “hàng” khác (như “Hàng
Đường, Hàng bạc, Hàng Muối trắng tinh”).
Có nhà nghiên cứu liên tưởng đến một địa danh khác của Hà
Nội là phố “Đình Ngang” vốn là con đường cửa ngõ đi vào trong thành qua
cửa phía Tây Nam, vì thế có một cái đình được dựng ngang đường cho một
đám quan quân đồn trú để tiện bề kiểm soát người qua lại.
Hàng Đường là cái tên có từ trong ca dao xưa và không bị thay
đổi, có chăng thêm cái tên phố Cầu Đông, khi có một chiếc cầu đá bắc
ngang con sông Tô Lịch. Sông Tô Lịch hồi chưa bị lấp chảy dài từ Hàng
Lược qua Hàng Cá, dọc Ngõ Gạch ra sông Hồng đoạn cuối Mã Mây.
Cũng vì có cây cầu đó mà không gian cận ảnh của tấm hình
này xưa kia chính là Chợ Cầu Đông. Sông lấp rồi, cầu không còn, để khai
thông con đường từ Bờ Hồ ra Hàng Đậu – là điểm giao với con đường khá
quan trọng từ Cầu Sông Cái đi vào khu Thành cổ – nên chợ Cầu Đông xưa
mới dịch chuyển sang một bên đường để lập ra cái chợ to và lấy tên hàng
tổng là Đồng Xuân.
Trường
đua ngựa mà nhiều người hay gọi là sân Quần ngựa ở Hà Nội có từ rất
sớm. Cuốn “Le Vieux Tonkin” (Bắc kỳ xưa) cho biết cuộc đua ngựa đầu tiên
ở Hà Nội diễn ra ngày 15/7/1886 trong khuôn khổ những hoạt động mừng
Quốc khánh Mẫu quốc năm ấy của đạo quân chiếm đóng và phải 2 năm sau
(1888) Tourane (Đà Nẵng) và Nam Định mới có nơi đua ngựa…
Nếu bạn đến rạp xiếc Hà Nội hiện đặt tại khu vực Công viên
Thống nhất, bạn có thấy một đôi tượng sư tử bằng đồng rất đẹp. Đó chính
là dấu tích còn lại duy nhất (!?) của một công trình kiến trúc rất đẹp
mà thoạt nhìn nhiều người ngỡ tưởng nó ở xứ sở xa xôi nào đó bên châu
Âu.
Toà nhà do kiến trúc sư Bussy thiết kế . Còn cuộc Đấu xảo
năm 1902 được khánh thành vào ngày 16-11-1902.Toà kiến trúc đã biến mất
sau trận ném bom của máy bay Đồng Minh (Mỹ) vào thời kỳ phát xít Nhật
đang chiếm đóng nước ta trong thời Đê nhị Thế chiến. Hai bức tượng đồng
là phần duy nhất không bị bom đạn huỷ hoại
Các cuộc “đấu xảo” được tổ chức tại Hà Nội từ cuối thế kỷ
XIX, nhưng cuộc “Đấu Xảo-1902” được coi là đặc săc nhất không chỉ là sự
kiện diễn ra vào đầu thế kỷ mới (XX) mà năm đó còn diễn ra một sự kiên
trọng đại là khánh thành chiếc cầu thép khổng lồ bắc qua sông Hồng nối
đường xe lửa từ Hải Phòng đến Hà Nội và ngược lên phía bắc để tới vùng
Vân Nam của Trung Quốc
Trường
Bảo hộ, nay là trường THPT Chu Văn An. Từ đây đã sản sinh ra những tên
tuổi như Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng
Xuân Hãn, Tôn Thất Tùng, Tạ Quang Bửu, Võ Nguyên Giáp, Ngô Gia Tự, Phạm
Văn Đồng…
Nhiều người nhìn tấm ảnh này đều dễ dàng nhận ra bức tượng
“Nữ thần Tự do” đã quá quen thuộc, sừng sững ở cửa ngõ TP New York của
Hoa Kỳ… Bức tượng trong ảnh này đúng là Tượng nữ thần Tự do, nhưng rõ
ràng là nó nhỏ hơn, lại nằm trên một đường phố của Hà Nội.
Với những người từng sống ở Hà Nội trước ngày Nhật đảo
chính Pháp (9/3/1945) thì vẫn có cơ hội trông thấy bức tượng này, được
dựng tại Vườn hoa Neyret (nay là Cửa Nam) ngay đầu phố Hàng Bông và nhìn
sang đường Cấm Chỉ.
Hà nội giờ này của ai ???
Trả lờiXóaCó ai nói : Phải sang Paris mới tìm thấy người Hà nội . Đau xót thế sao ?
K6LS
"Tay bo quân tử, 1 chọi 1 ra cột đồng hồ" giờ mởi hỉu tại sao: đồng hồ thì ít, lại trồng nơi trống trải.
Trả lờiXóaCác kụ ăn tạm món "tê tê buồn buồn" nì.