Bài ca Trường Nguyễn Văn Trỗi

Nhạc và lời: Hồng Tuyến

Thứ Ba, 26 tháng 5, 2015

Nhân kỷ niệm 110 năm ngày sinh bác Hoàng Quốc Việt

Bà Khuất Thị Bảy : Đóa quỳnh tỏa hương trong đêm

Bà Khuất Thị Bảy : Đóa quỳnh tỏa hương trong đêm
Bà Khuất Thị Bảy 

Dưới bóng người anh hùng Hoàng Quốc Việt (tên thật Hạ Bá Cang), bà Khuất Thị Bảy (bí danh Khuất Thị Vĩnh) chỉ được biết đến với vai trò của một vị phu nhân đáng kính, em ruột của ông Khuất Duy Tiến nổi danh. Tuy nhiên, những công trạng của bà dù hòa chung vào chiến công lớn lao của những người anh hùng cùng lứa vẫn mang dấu ấn riêng…

Chúng tôi gặp bà Hạ Chí Nhân, con gái ông Hoàng Quốc Việt –  Bà Khuất Thị Bảy vào sát ngày sinh nhật lần 94 của cụ Bảy, cũng là ngày Phụ nữ Việt Nam (20/10) để nghe câu chuyện nhuốm màu huyền thoại mà ít người biết đến về người phụ nữ này.
 
Sinh năm 1920 tại thôn Thuần Mỹ, xã Mỹ Trạch Lộc, tỉnh Sơn Tây (cũ), bà Bảy tham gia cách mạng từ năm 1936, lúc vừa 16 tuổi. Bà là con thứ bảy của cụ Khuất Duy Đính, hương thân bậc nhất trấn Nam Sơn. Cụ Tổng Khuất Duy Đính có bảy người con gái mà thời ấy, dân trấn Nam Sơn khi vào hội hay nói rằng "Con nhà cụ Tổng ra hội là đẹp rực cả một góc hồ”, nói thế vì bà Khuất Thị Bảy đẹp, cái đẹp nền nã, đặc trưng của đất Bắc Bộ. 
 
 17 tuổi, Khuất Thị Bảy được giao nhiệm vụ phụ trách cơ quan liên lạc của Đảng ở Bắc Giang, ủy viên BCH Thanh niên tỉnh Sơn Tây, ủy viên Ban cán sự tỉnh Vĩnh Yên, ủy viên Ban công vận TP Hải Phòng… Tháng 9/1941 bà bị đế quốc Pháp bắt tại Hải Phòng và kết án 20 năm tù khổ sai, giam giữ tại các nhà tù Sơn Tây, Nam Định, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Thời gian bị tù, bà vẫn liên lạc với cách mạng bên ngoài và sau đó vượt ngục về hoạt động, xây dựng các căn cứ địa để bảo vệ cơ quan đầu não của Đảng, làm ủy viên thường vụ tỉnh ủy Vĩnh Yên. Cũng tại Vĩnh Yên, bà Bảy đã có chiến công to lớn chặn đứng bàn tay của Quốc dân đảng trong việc nhúng sâu hơn vào chính trị nước Việt.
Thổ Tang, Vĩnh Tường, Vĩnh Yên, mảnh đất của những tỷ phú bây giờ vào thời kỳ sát Tổng khởi nghĩa là hang ổ của Quốc dân Đảng, việc buôn bán thông thương của mảnh đất này với giới Hoa kiều là điều kiện thuận lợi cho Quốc dân đảng cắm rễ tại đây… Tuy nhiên, khi nhận được thông tin Quốc dân đảng cũng đang chuẩn bị lực lượng giành chính quyền, bà Bảy, lúc đó hoạt động với bí danh Khuất Thị Vĩnh đã cùng Đặng Việt Châu quyết định triệu tập Hội nghị Việt Minh tại làng Bích Đại ngày 20-9 để quyết định giành chính quyền vào ngày 21-9 (dù thời cơ chưa chín muồi). 
 
Do hai con đê bị vỡ nên vùng này khó huy động được số đông quần chúng (sức mạnh chủ yếu của cách mạng lúc bấy giờ), tuy nhiên bà Bảy đã huy động 30 con thuyền chở 300 tự vệ, cán bộ tiến đến huyện đường khống chế tri huyện, giải tán lực lượng Quốc dân Đảng… Sau này, chiến tích và sự quyết đoán của bà Bảy khi đó đã minh chứng cho sự sáng suốt, cứu vãn được cả giai đoạn lịch sử. Đó là khi Quốc dân đảng có được 50 ghế ở Quốc hội Việt Nam non trẻ (không qua bầu cử) cùng lúc với quân đội Lư Hán (cánh tay phải của Quốc dân đảng) kéo vào với 2 vạn quân, nếu lúc đó, Nguyễn Hải Thần, thủ lĩnh Quốc dân đảng có được mảnh đất để xây dựng lực lượng của mình tại huyện Vĩnh Tường kề sát ngay Hà Nội thì có lẽ các cuốn sử cách mạng Việt Nam sẽ phải viết lại toàn bộ.
Khi ông Trần Huy Liệu cùng ông Cù Huy Cận  đứng trên đài cao nhận ấn kiếm thoái vị của vua Bảo Đại thì bà Bảy phải làm công tác "triều đình vận” tại cung tẩm. Bà Lê Thị Dinh, người cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn (Cung nữ nhưng gần như là "trợ lý” của Từ Cung Thái Hậu, vị  Thái hậu có tinh thần dân tộc lớn và có tầm ảnh hưởng lớn nhất tại triều đình Huế năm 1945). Trong  những tư liệu mà chúng tôi có được đã nói "Ngài (tức Bảo Đại) sau lễ thoái vị có ra nghỉ cung An Định (Cung nghỉ mùa hè) một đêm, rồi sau nghe Nam Phương Hoàng Hậu nên ra Bắc ngay để gặp Cụ Hồ”. Trước khi lễ thoái vị diễn ra, bà Bảy đã nhiều lần gặp Từ Cung Thái hậu và Nam Phương Hoàng hậu để làm công tác "triều đình vận”, vì thế chỉ ngay sau ngày độc lập, ngày 3-9-1945, Bảo Đại đã có mặt tại Hà Nội gặp Cụ Hồ vui vẻ nhận chức cố vấn của Chính phủ mới.
 
Cũng vì công tác "triều đình vận” còn nhiều phức tạp nên bà Bảy đã ở lại Huế làm thành viên Ủy ban Thành phố Huế. Gia đình ông Hoàng Quốc Việt có một sự trùng hợp ngẫu nhiên của lịch sử. Trong khi ông Khuất Duy Tiến (anh vợ ông Hoàng Quốc Việt, anh ruột bà Bảy) ngoài Hà Nội thuyết phục giới doanh nhân có được "Tuần lễ vàng” tại Hà Nội thì tại Huế, bà Bảy thuyết phục được Nam Phương Hoàng hậu làm cố vấn cho "Tuần lễ vàng” ở Huế. Còn ông Hoàng Quốc Việt cũng tổ chức "Tuần Lễ vàng” tại miền Nam.
 
Câu chuyện tình của ông Hoàng Quốc Việt và bà Khuất Thị Bảy cũng thật đáng nhớ. Ông Hoàng Quốc Việt và ông Khuất Duy Tiến ở tù của Pháp cùng nhau năm 1932, ông Khuất khoe bức ảnh của mẹ giấu mang đi được, ông Hoàng thán phục "Mẹ ông đẹp quá”, ông Khuất vui vẻ "Đám em gái nhà tôi cũng đẹp như mẹ, ra tù, có người nào giác ngộ cách mạng, tôi gả cho anh”. 
 
Trong hồi ký của Thượng tướng Chu Văn Tấn, Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên có trân trọng nhắc đến bà Khuất Thị Bảy là người trong đoàn của Tổng bộ Việt Minh lên thành lập đội Cứu quốc quân 3 (Sơn Dương, Tuyên Quang)
 
Ra tù, ông Hoàng Quốc Việt đến nhà ông Khuất Duy Tiến chơi, lúc đó là năm 1936, bà Bảy lúc đó 16 tuổi đang tuổi nhí nhảnh gọi ông Hoàng Quốc Việt là "anh già” – vì ông hơn bà 18 tuổi. Nhưng làm cách mạng không có nghĩa là khô cứng, là không biết yêu lãng mạn, có lần mấy chị em gái bắt được bức thư tình của "Anh già” gửi bà Bảy. Nhà bà Bảy có bảy chị em gái (ông Khuất Duy Tiến là anh trai và cũng là con trai duy nhất, bà Bảy hàng thứ bảy trong nhà) nên chị em nghịch ngợm mở ra xem. Đến câu cuối cùng, cả nhà ngơ ngác khi đọc "Anh sẽ yêu em đến cù nỳ”, "Cù nỳ” thực ra là chứ viết tháu của chữ "cùng”. Vậy mà đến tận năm 1945, hai ông bà mới cưới nhau. Sau khi đất nước độc lập, bà Bảy chuyển về  công tác ở Ban Tổ chức Trung ương và mất năm 1976.
 
Chuẩn bị cho ngày vinh danh Phụ nữ Việt Nam 20-10, cũng là ngày sinh của bà Khuất Thị Bảy, người nép bên cái bóng vĩ đại của chồng, anh hùng Hoàng Quốc Việt, lại càng thấy khâm phục những người phụ nữ Việt chiến tích oai hùng mà cả đời lặng lẽ như những đóa hoa quỳnh tỏa hương trong đêm.
Quy Lâm.

Nguồn: http://hokhuatvietnam.org/news/vi/news/Tin-tuc/Ba-Khuat-Thi-Bay-Doa-quynh-toa-huong-trong-dem-50/

Thứ Bảy, 23 tháng 5, 2015

Tin buồn!

Ban liên lạc K8 và C11 trường Nguyễn Văn Trỗi xin thông báo: Anh Lê Chí Dũng, là chồng bạn Vũ Minh Hà, cựu h/s B5 K8 C11 NVT, sau một thời gian dài lâm bệnh nặng, đã từ trần sáng nay, hưởng thọ 69 tuổi. Lễ viếng sẽ được tổ chức từ 7h30 đến 9h sáng thứ Hai, ngày 25/5/2015 tại nhà tang lễ Phùng Hưng, Hà Nội. Bạn Trỗi có mặt lúc 8h sáng cùng ngày để viếng anh Dũng. Xin chia buồn cùng Vũ Minh Hà và gia quyến.

Chủ Nhật, 17 tháng 5, 2015

Tướng Nguyễn Sơn

Hôm nay đọc thấy bài này viết về tướng Nguyễn Sơn. Thấm thoát mà đã đến ngày sinh nhật 100 năm của ông. Cố nhiên, tôi chỉ biết ông qua sách báo mà thôi, chứ ông ấy còn cao tuổi hơn Ba tôi. Lần đầu tiên tôi nghe đến tên ông là tôi nghe lén khi Ba tôi kể về ông này trong những buổi tiệc tùng ở nhà. Từ đó, tôi tìm hiểu và đọc khá nhiều về ông tướng có thể nói là huyền thoại này. Nghe nói gần đây vợ ông có viết một cuốn hồi kí mà tôi tìm chưa ra.
Ông Nguyễn Sơn tuy là nhà quân sự nhưng rất thích văn nghệ, và ông bảo vệ giới văn nghệ sĩ hết mình. Ít ai biết rằng ông tướng này chính là người đứng ra làm lễ thành hôn cho Phạm Duy và Thái Hằng trong thời kháng chiến. Phạm Duy có viết hồi kí và có hẳn 1 chương viết về tướng Nguyễn Sơn. Xin trích lại đây vài đoạn để các bạn biết thêm về tướng Nguyễn Sơn (đây là đoạn viết khi Phạm Duy và đoàn văn nghệ về Thanh Hóa vào thập niên 1940s):
Nhưng người mà tôi mong được gặp nhất ở đây là tướng Nguyễn Sơn. Tôi được nghe rất nhiều huyền thoại về ông từ khi danh tướng có nhiều kinh nghiệm chiến trường này từ Trung Cộng trở về nước rồi được Hồ Chí Minh cử vào Quảng Ngãi để lập một mặt trận với mục đích ngăn không cho Quân Đội Pháp mở rộng chiến trường ra phía Bắc vào những ngày đầu của cuộc kháng chiến Nam Bộ. Chắn chắn Nguyễn Sơn là người thu hút được hầu hết các văn nghệ sĩ ở vùng suôi gia nhập vào những tổ chức kháng chiến ở đây.
Cũng phải công nhận là ở Thanh Hoá, từ khi xẩy ra cuộc kháng chiến toàn quốc cho tới khi có Hiệp Định Geneve, đã không bao giờ có một cuộc giao tranh lớn nhỏ nào xẩy ra cả. Quân Đội Pháp có thể mở nhiều cuộc càn quét ở các khu vực khác, nhưng họ không có đủ quân để tiến vào nửa phần ngoài của Chiến Khu IV này. Tình hình ở ba tỉnh Quảng Bình-Quảng Trị-Thừa Thiên (gọi tắt là Phân Khu Bình-Trị-Thiên) thì rất là sôi động nhưng tình hình ở ba tỉnh Thanh Hoá-Nghệ An-Hà Tĩnh (gọi tắt là Phân Khu Thanh-Nghệ-Tĩnh) thì rất là an ninh. Dân chúng ở đây có đầy đủ thóc gạo để ăn. Không những thế, tỉnh Thanh Hoá còn là nguồn tiếp tế lương thực cho các vùng trung du và thượng du ở miền ngoài. So với những Chiến Khu ở Việt Bắc và so ngay cả với Chiến Khu III là miền đồng bằng, tôi thấy đời sống ở Chiến Khu IV này rất là dễ chịu và là nơi lý tưởng để tập trung văn nghệ sĩ. Nhất là tại đây lại có hai người của chính quyền rất chú trọng tới vấn đề văn hoá là Đặng Thái Mai và tướng Nguyễn Sơn.
Trong thời gian vừa mới gia nhập Đoàn Văn Nghệ Quân Đội Liên Khu IV và đang trong thời kỳ tập dượt trước khi lên đường đi công tác xa, hằng đêm chúng tôi thường tới sinh hoạt với tướng Nguyễn Sơn, hoặc để biểu diễn thử cho ông ta coi, hoặc để nghe ông ta nói chuyện về kinh nghiệm làm công tác văn nghệ trước đây trong Hồng Quân Trung Hoa. Nguyễn Sơn có vẻ rất thích loại dân ca mới của tôi. Tôi rất khoái Nguyễn Sơn vì thấy ông ta khác hẳn các ông "cách mạng" mà tôi đã gặp, tính tình cởi mở hơn, vóc dáng quắc thắc hơn, hiểu biết về văn nghệ hơn. Ngoài ra, ông tán gái cũng giỏi lắm. Một thiếu nữ trẻ măng có cái tên là Hoài luôn luôn ở gần gụi ông, lúc đó ông cũng đã quá 40 tuổi rồi. Điều này đã làm cho Ban Thường Vụ ở trên Trung Ương khổ tâm lắm. Dần dà, tôi biết thêm về tiểu sử của ông.
Trong những đêm sinh hoạt giữa văn nghệ sĩ và vị Tư Lệnh của Chiến Khu, về vấn đề văn nghệ, chúng tôi thường được nghe ông nói về Tào Ngu và vở kịch Lôi Vũ và chúng tôi đã học hỏi được ở ông rất nhiều điều để có thể đem áp dụng vào công tác văn nghệ của chúng tôi lúc bấy giờ. Điều này cũng chẳng lấy gì làm lạ vì tướng Nguyễn Sơn đã từng là đoàn trưởng của nhiều đoàn ca kịch trong Hồng Quân Trung Hoa từ khi ông là đồng chí của Mao Trạch Đông.
Để hiểu rõ con người Nguyễn Sơn hơn nữa, xin kể một chuyện vặt về viên tướng Tư Lệnh này: Là người nghiện thuốc lá, lúc nào trong túi cũng có một bao thuốc thơm hảo hạng "3 con 5", một hôm, Nguyễn Sơn đi ra phía Cầu Hàm Rồng và đi qua một trạm gác. Tuy là tướng đó nhưng có lúc nào ông mặc quân phục đâu? Mặt thì xạm nắng, người thì khô đét, tóc thì như rễ tre, lại ưa mặc quần đùi, ai trông cũng tưởng là một anh binh bét, lính tốt đen. Nguyễn Sơn đang đứng ở dưới chân cầu, vừa móc túi lấy thuốc lá ra hút thì một anh dân quân đứng gác ở gần đó đi tới và phê bình:

-- Tại sao đồng chí lại hút thứ thuốc lá quốc cấm này? Tôi phải tịch thu, không đưa thì tôi bắt đồng chí ngay lập tức.

Cận vệ vội chạy lại túm cổ anh dân quân và hỏi:

-- Có biết ai đây không? Tướng Tư Lệnh đó.

Nhưng Nguyễn Sơn đã gạt anh cận vệ ra, nhe răng cười và nói với anh dân quân:

-- Cậu làm như vậy là đúng, xin nộp đồng chí bao thuốc lá.

Đi khỏi chỗ đó một quãng đường, Nguyễn Sơn mặt tỉnh khô, bảo cận vệ đưa cho ông bao thuốc "3 con 5" khác.”
(Hồi kí Phạm Duy, chương 56).
=====

Tướng Nguyễn Sơn trong quân phục Trung Quốc
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Lưỡng quốc Tướng quân Nguyễn Sơn (1-10-1908 - 1-10-2008) Nguyễn Sơn - Vị tướng của tình hữu nghị Việt – Trung
Thứ tư, 01/10/2008, 14:51 (GMT+7)
Tôi có may mắn được chiến đấu dưới quyền chỉ huy của tướng Nguyễn Sơn thời kháng chiến chống Pháp khi ông là Tư lệnh kiêm Chính ủy Chiến khu thứ Tư (nay là Quân khu 4) và tôi là cán bộ tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 57. Tôi cũng nhiều lần được trò chuyện với ông ở Trung Quốc năm 1950 và 1955 khi tôi sang Trung Quốc học tập và công tác.
1. Ông tên thật là Vũ Nguyên Bác, sinh ngày 1-10-1908 tại phố Yên Ninh, Hà Nội, nguyên quán ở làng Kiêu Kỵ thuộc huyện Gia Lâm. Lên 7 tuổi ông vào học Trường Đỗ Hữu Vỵ, sau đó học Trường Sư phạm nội trú Hà Nội. Chịu ảnh hưởng của gia đình và phong trào yêu nước, năm 1925 ông giác ngộ và được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội do Nguyễn Ái Quốc sáng lập. Sau đó ông bí mật sang Quảng Châu, Trung Quốc.
Sau khi tham gia lớp huấn luyện chính trị đặc biệt do Nguyễn Ái Quốc tổ chức, ông được cử đi học Trường Quân sự Hoàng Phố do Tôn Trung Sơn sáng lập với sự giúp đỡ của cố vấn Liên Xô.

Tháng 8-1927, Vũ Nguyên Bác gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 12 năm đó, cuộc khởi nghĩa Quảng Châu bùng nổ. Cùng với các đồng chí Trung Quốc và Việt Nam, ông tham gia cuộc khởi nghĩa Quảng Châu. Cuộc khởi nghĩa thất bại và bị dìm trong biển máu.
Tạm lánh sang Thái Lan, hoạt động trong tổ chức cách mạng của Việt kiều. Giữa năm 1928 Vũ Nguyên Bác trở lại Trung Quốc. Ông qua Hồng Công rồi vào khu căn cứ Đông Giang tham gia chiến tranh du kích, làm chính trị viên đại đội. Từ đó ông lấy tên là Hồng Thủy.
Mùa thu năm 1934, Chủ tịch Mao Trạch Động chủ trương tiến hành cuộc Vạn lý trường chinh dài hơn 12.000km từ Giang Tây lên Thiểm Bắc. Hành quân trong đội hình Phương diện quân thứ nhất, Hồng Thủy là một trong bốn người nước ngoài và là người Việt Nam duy nhất tham gia cuộc Vạn lý trường chinh gian khổ ấy.
Năm 1937, phát xít Nhật gây chiến tranh xâm lược Trung Quốc. Đảng Cộng sản chủ trương chấm dứt nội chiến, hợp tác với Quốc dân Đảng để đoàn kết toàn dân chống Nhật. Hồng quân ở Hoa Bắc đổi tên là Bát Lộ quân, ở Hoa Đông lấy tên là Tân Tứ quân. Thời kỳ đầu chiến tranh chống Nhật, Hồng Thủy được Bộ Tổng chỉ huy Bát Lộ quân cử đi xây dựng căn cứ kháng Nhật ở vùng Đông Bắc tỉnh Sơn Tây, lần lượt giữ các chức vụ: Bí thư Khu ủy 4 huyện Ngũ Đại, Phó Bí thư Đảng ủy khu Đông Bắc Sơn Tây; Tổng phụ trách lớp huấn luyện cán bộ ở Vương Gia Trang. Sau đó, ông phụ trách báo “Kháng địch” của quân khu Tấn Ký Sát, rồi làm giáo viên chính trị Trường Quân chính kháng Nhật. Từ năm 1939 đến 1942, ông về Phân hiệu hai Đại học Quân chính kháng Nhật ở Hà Bắc.
2. Tháng 8-1945, khi Hồng Thủy đang học tại Trường Đảng Trung ương ở Diên An thì cuộc kháng chiến chống Nhật của Trung Quốc kết thúc, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân Việt Nam bùng nổ. Được tin Cách mạng Tháng Tám thành công và nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời do cụ Hồ Chí Minh làm chủ tịch, ông xin được về ngay tổ quốc. Lúc đó ông chưa biết Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc tức Lý Thụy – người thầy cách mạng của mình hai mươi năm về trước. Từ Diên An, ông đáp máy bay đi Trùng Khánh rồi tìm đường về Hà Nội. Để giữ bí mật, ông đổi tên là Nguyễn Sơn từ đấy.
Nguyễn Sơn trở về nước khi thực dân Pháp đã gây chiến tranh xâm lược miền Nam, Hồ Chủ tịch và Thường vụ Trung ương Đảng bổ nhiệm ông làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam. Cùng với các đồng chí lãnh đạo và quân dân miền Nam, ông đã góp phần tích cực ngăn chặn bước tiến của quân xâm lược Pháp thời kỳ đầu kháng chiến. Tháng 5-1946, trên vùng tự do Liên khu 5, ông thành lập và trực tiếp làm hiệu trưởng Trường Sĩ quan lục quân Quảng Ngãi để đào tạo cán bộ cho các chiến trường.
Tháng 7-1947, ông được bổ nhiệm làm Khu truởng kiêm Chính ủy chiến khu thứ 4 gồm sáu tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình, Trị, Thiên, chức vụ Đảng là Phó Bí thư khu ủy. Mùa xuân năm 1948, trong đợt phong quân hàm đầu tiên của Quân đội Nhân dân Viêt Nam, ông được phong thiếu tướng.

Cuối năm 1949, ông rời Khu 4 ra Việt Bắc rồi sang Bắc Kinh vào giữa năm 1950 khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vừa ra đời. Sau một thời gian làm việc ở cơ quan Mặt trận thống nhất Trung ương và học tập ở Học viện Quân sự Nam Kinh, năm 1954 ông về Bộ Tổng giám huấn luyện Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, giữ chức Phó Cục trưởng Cục Điều lệnh, Tổng Biên tập tạp chí huấn luyện chiến đấu. Ngoài tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, ông học thêm tiếng Nga và có khả năng dịch tài liệu tiếng Nga sang tiếng Trung Quốc.
Năm 1955, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc lần đầu tiên tổ chức phong quân hàm và khen thưởng tổng kết, ông được phong hàm thiếu tướng và được tăng thưởng Huân chương Bát nhất, Huân chương Độc lập và Huân chương Giải phóng, đều là hạng nhất. Đây là sự ghi nhận của Đảng, Chính phủ Trung Quốc đối với những đóng góp xuất sắc của ông – người nước ngoài duy nhất đã đi suốt quá trình xây dựng quân đội cách mạng Trung Quốc từ những ngày gian khổ hiểm nguy cho đến ngày thắng lợi.
3. Năm 1956, các bác sĩ Trung Quốc phát hiện ông bị khối u ác tính, đã phẫu thuật nhưng không kết quả. Được Đảng Trung Quốc thông báo, Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng ta có ý định đưa ông sang Liên Xô với hy vọng chữa khỏi bệnh cho ông. Tuy nhiên, sau khi xem bệnh án gửi sang, các giáo sư Liên Xô cho biết bệnh ông không có khả năng chữa khỏi. Trung ương Đảng nhất trí để ông và gia đình về Việt Nam.
Cuối tháng 9-1956, tôi được giao nhiệm vụ lên Bằng Tường đón ông. Đến nơi tôi được biết Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã tổ chức một chuyến tàu đặc biệt đưa ông từ Bắc Kinh về Bằng Tường. Tại đây, đại diện Đảng, chính quyền và quân đội Trung Quốc đã lưu luyến tiễn ông qua biên giới. Dạo ấy, sau 9 năm kháng chiến, đường sắt Đồng Đăng – Hà Nội chưa khôi phục xong, chúng tôi dùng ô tô đưa ông và gia đình về Hà Nội. Ông rất cảm động khi thấy có người quen lên đón và dặn tôi, khi vượt qua biên giới, tìm một chỗ thuận tiện cho đoàn xe dừng lại, để ông “tận hưởng phút giây hạnh phúc khi đặt chân lên mảnh đất quê hương”.
Tôi đã thực hiện những điều giản dị mà ông ao ước. Nhưng tiếc là về nước được hơn một tháng, ông đã ra đi trong niềm tiếc thương của nhân dân và quân đội hai nước Việt – Trung, khi vốn kiến thức và kinh nghiệm đang độ chín muồi, khi đất nước và quân đội đang rất cần những vị tướng như ông.
HOÀNG MINH PHƯƠNG