Trang Ba Sàm cũng bị chặn bởi một số nhà cung cấp dịch vụ Internet tại Việt nam, tại một số nơi có thể khó truy cập. UT xin đăng lại các bác tham khảo : Ý kiến của một độc giả người Tiên Lãng trên trang Ba Sàm. Bác nào "ngại" hoặc không muốn đọc xin cứ tự nhiên bỏ qua.
ABS: Đây là phản hồi của một độc giả lấy bút
danh là “Nông Dân”, đã được BS biên tập, bổ sung ghi chú, hình ảnh đôi
chút, xin đăng lên để thêm thông tin về vụ việc thu hút sự quan tâm hiếm
có của đồng bào cả nước chỉ trong một thời gian ngắn.
NÔNG DÂN
Là người đang sống ở Tiên Lãng, Nông dân
tôi cố đưa ra cái nhìn khách quan nhất về sự kiện Đoàn Văn Vươn. Để
tránh một phản hồi quá dài, tôi sẽ chia làm ba phần và nhờ AnhBaSam lần
lượt gửi cho những ai quan tâm.
Phần 1: Đất và người Tiên Lãng (comment lúc 08:42 ngày 29/01/2012).
Phần 2: Quá trình khai thác bãi bồi ven
sông, biển và cái gọi là thu hồi của huyện Tiên Lãng (comment lúc lúc
09:26 ngày 30/1/2012).
Phần 3: “Trấn áp tội phạm”, “Bảo vệ hiện trường” và cách xử lý hậu quả của lãnh đạo Hải Phòng.
Tiên Lãng là một vùng đất nằm ở phía Nam
Thành phố biển Hải Phòng. Mảnh đất đầu sóng ngọn gió có từ hơn hai
nghìn năm, đã được ghi lại qua nhiều dấu ấn lịch sử văn hoá:
Miếu thờ ba chị em họ Tạ là Tạ Huy Thâu,
Tạ Ả Ráng và Tạ Đoan Dung ở xã Tiên Minh. Họ là những người đã tập hợp
người dân địa phương thành một đội quân gồm cả nam lẫn nữ rất đông, kéo
về Mê Linh tụ nghĩa. Khi khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại họ rút quân về
quê tiếp tục kháng chiến, nơi đó là mảnh đất cuối cùng Mã Viện bình
định được.
Tiên Lãng là nơi có danh tướng Ngô Lý
Tín có công lớn đã làm đến chức Thái phó thời nhà lý, chọn là nơi trở về
với đất trời (tại làng Cẩm Khê – Xã Toàn Thắng) đến nay đền thờ Gắm vẫn
còn.
Tiên Lãng có ngôi cổ tự được xây dựng từ
thời nhà Lý cách đây trên 800 năm. Tại đây đã có rất nhiều các bậc cao
Tăng trụ trì và hành đạo, nay được tôn tạo thành chùa Phúc Thắng ở thôn
Mỹ Lộc – xã Tiên Thắng.
Tiên Lãng là quê hương của Hộ bộ thượng
thư Nhữ Văn Lan *, thân phụ của bà Nhữ Thị Thục một bậc nữ lưu tài hoa,
người đã mang tài học về Lý số của mình truyền cho con trai là Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm *.
Từ đời nhà Mạc để giúp dân Tiên Lãng
chống chọi với bão gió, triều cường vỡ đê, lụt lội, Mạc Đăng Dung đã cho
tôn cao một giải đất chạy dài dọc theo sông Thái Bình từ xã Bắc Hưng,
vắt qua Tiên Minh, Đoàn Lập tới bến Đò Hàn, để đến hôm nay người dân ở
đó còn biết nơi họ đang ở, làng xóm của họ, được xây dựng trên đường nhà
Mạc khi xưa. Cách làm này, có phải ngày nay đang được áp dụng với vùng
đồng bằng sông Cửu Long.
Với 9 năm kháng chiến chống thực dân
Pháp có bao nhiêu Làng, Xã ở huyện Tiên Lãng được nhà nước phong tặng
danh hiệu anh hùng? Nó đủ nói lên sự mất mát hy sinh của người dân Tiên
Lãng ở thời kỳ này.
Tiên Lãng rất nghèo, bạn có thể gặp trên
khắp mọi miền của đất nước, những người xuất thân từ Tiên Lãng đang
sinh cơ lập nghiệp. Nhưng chắc chắn sẽ không ai gặp một người Tiên Lãng
đang đi ăn mày.
Viết những dòng này Nông dân tôi chỉ
muốn nhắc nhỏ những ai đang coi người dân Tiên Lãng nói riêng, người dân
Hải Phòng hay người dân cả đất nước Việt Nam chỉ là những đối tượng
phải “giáo dưỡng”, “thuần hóa” thì họ đang nhầm.
PHẦN II- Quá trình khai thác bãi bồi ven sông, biển và cái gọi là thu hồi của huyện Tiên Lãng
Vào đầu những năm 80 của thế kỷ 20, phần
bãi bồi hàng nghìn ha ở hai cửa sông Thái Bình và Văn Úc và bãi bồi
biển Vinh Quang đều để hoang hóa.
Năm 1988 Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị
đảng CS VN được thực thi, lúc này chức năng kinh tế của hộ nông dân được
xác lập trở lại. Nền sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp bắt đầu hình
thành và ngày càng phát triển. Đất đai tư liệu sản xuất chủ yếu của
người Nông dân được khai thác ngày càng hiệu quả. Ở Tiên Lãng những năm
này bắt đầu có nhu cầu khai thác vùng bãi bồi ven sông, ven biển. Đầu
tiên là việc chính quyền một số xã, thông qua các hợp tác xã nông nghiệp
đã tổ chức đắp đê khoanh vùng tại các bãi triều ven sông, với mục tiêu
nuôi trồng thủy sản, nhưng hoàn toàn thất bại, chỉ sau mấy tháng phần đê
các hợp tác xã đắp phần lớn bị trôi phẳng.
Cuối những năm 80 đầu những năm 90 do
Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, vùng biên giới được
thông thương, một số thủy sản trước kia chỉ là sản phẩm phụ nay được giá
(ví dụ 1kg cua có thể đổi được 10 kg gạo), vì vậy phong trào đắp đê tạo
vùng nuôi trồng thủy sản bắt đầu phát triển. Ban đầu một số hộ dân ký
hợp đồng trực tiếp với chính quyền các xã, hoặc các hợp tác xã nông
nghiệp, họ hoàn toàn không có sự hỗ trợ tài chính nào từ chính quyền, vì
vậy đòi hỏi họ phải có chút ít tiềm lực, đặc biệt phải có nhiều nhân
lực (như gia đình Đoàn Văn Vươn có tới 7 anh chị em).
Khi luật đất đai năm 1993 có hiệu lực,
chính quyền huyện bắt đầu phải giao đất cho các chủ đầm theo luật định
và mặc nhiên quyền quản lý các đầm trên các vùng bãi bồi thuộc thẩm
quyền của huyện. Việc này giúp các chủ đầm yên tâm hơn trong việc đầu tư
và có thể dùng giấy quyền sử dụng đất thế chấp vay vốn từ các tổ chức
tín dụng. Kết quả phong trào khai thác các bãi bồi ven sông, cửa biển
phát triển rất mạnh. Từ đó đã hình thành sự liên kết của các chủ đầm, để
học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau.
Việc giao đất theo thời gian ngẫu hứng
là cách nghĩ của các quan huyện “tao không làm được, nhưng “tao biết”,
giao cho chúng mày từng đó năm là có lãi rồi“. Điều này có phạm luật hay
không xin nhường cho các cơ quan hữu quan “đối chất”. Còn việc nói khi
giao đất, các chủ đầm có hợp đồng với huyện, khi hết hạn bị thu hồi
không đòi hỏi phải bồi hoàn tài sản, là phát ngôn láo toét.
Trở lại trường hợp thu hồi đầm của Đoàn
Văn Vươn và một số chủ đầm khác ở Tiên Lãng đợt này. Huyện đã giao quyết
định thu hồi cho các chủ đầm nhưng đều bị các chủ đầm phản đối mạnh mẽ,
vì tính phi lý của nó, vì tấm gương của chủ đầm Thảo (tôi quên mất họ) *
với 70 ha bãi bồi ở xã Tiên Thắng, đã bị chính quyền huyện thu hồi và
hành xử như thế nào (điều này phải hỏi nguyên lãnh đạo Lưu Quang Yên sẽ
rõ!). Mâu thuẫn hai bên ở thời điểm này đã mang tính đối kháng.
Tưởng ý mình có thế bưng bít và đứng
trên pháp luật, dân là đối tượng không cần quan tâm, Lê Văn Hiền và một
số lãnh đạo huyện Tiên Lãng vẫn quyết định thực hiện cưỡng chế và chọn
gia đình Đoàn Văn Vươn là điểm bắt đầu với các toan tính:
– Thứ nhất:
anh em Đoàn Văn Vươn là những người hiền nhất trong các chủ đầm của
huyện, lại theo công giáo và rất tôn trong pháp luật sẽ không dám chống
đối những người được coi là “thi hành công vụ”.
- Thứ hai:
anh em Đoàn Văn Vươn đang sử dụng đầm trên 40 ha tại xã Vinh Quang nơi
có Lê Văn Liêm làm chủ tịch xã, Vươn lại là người xã khác. Hai điều này
có thể thuận lợi, để tạo được sự đồng thuận trong cán bộ và nhân dân xã.
- Thứ ba: các chủ mới đã thỏa thuận xong, giao kèo ngầm đã được ký kết. chỉ còn đợi ra “công khai” đấu thầu.
Có thể nói chính quyền huyện Tiên Lãng
đã tính toán rất kỹ, nên mới hơn 7 giờ sáng khi chủ đầm Đoàn Văn Vươn
còn đang to tiếng với các cán bộ xã, huyện tại UBND xã Vinh Quang, thì
trước đó một mũi khác của đoàn cưỡng chế đã bắt đầu xuống đầm và pháo
phát nổ, súng phát hỏa xảy ra ở thời điểm này.
Rất nhiều khả năng dù đoàn “cưỡng chế”
có vào khu đầm bình thường, thì gia đình Đoàn Văn Vươn vẫn có người bị
bắt vì một lý do theo kịch bản đã có sẵn.
Điều này căn cứ vào câu nói của một lãnh đạo tham gia đoàn cưỡng chế “hỏng mất kế hoạch, nhưng gia đình nó bị bắt hết cũng đủ răn đe rồi”.
Vì vụ án còn trong quá trình điều tra
Nông dân tôi chỉ xin thông tin như vậy (việc lộ bí mật trong quá trình
điều tra, pháp luật đã ngăn cấm).
Thông tin thêm: bí thư huyện ủy Tiên
Lãng hiện nay là đồng chí Bùi Thế Nghĩa nguyên là sinh viên khoa văn đại
học Tổng Hợp, chưa biết có mê “Kiều “ hay không, nhưng rất thích bàn
văn và bình thơ. Đồng chí chủ tịch Lê Văn Hiền mới hơn ba năm nhận nhiệm
vụ đã luôn có được “ủng hộ” và “thống nhất” của các cán bộ, ban ngành
trong huyện ở rất nhiều công việc.
Luật đất đai ảnh hưởng nhiều nhất tới
hơn 70% dân số là Nông dân chúng tôi. Trước khi ban hành các bác cũng
nên hỏi chúng tôi một tiếng! Đừng để xảy ra sai phạm quá trầm trọng, các
bác mới tìm nhau “đối chất “ thì khó cho Nông dân lắm lắm.
PHẦN III- “Trấn áp tội phạm”, “Bảo vệ hiện trường” và cách xử lý hậu quả của lãnh đạo Hải Phòng
Việc cưỡng chế khu đầm Đoàn Văn Vươn chỉ
là một vụ cưỡng hành chính. Có sự tham gia của các phòng ban chức năng,
dân, chính, đảng tất nhiên có lực lượng công an. Nhiệm vụ chính của
Công an là để giữ gìn trật tự đảm bảo cho hoạt động cưỡng chế diễn an
toàn ra đúng pháp luật. Công an chỉ xử lý những hành vi quá kích cản trở
những người đang làm công tác cưỡng chế.
Công an Tiên Lãng chưa thực hiện đúng
chức năng khi tham gia cưỡng chế, bỏ mặt các tổ công tác và giữ gìn trận
tự an toàn trên đê, lại xông thẳng xuống đầm. Hình ảnh này tạo cho Đoàn
Văn Quý có cảm giác như đang bị truy đuổi, không làm chủ được bản thân,
dẫn đến nổ súng và hậu quả đáng tiếc 6 cán bộ chiến sĩ của lực lượng
của huyện đã bị thương.
Vụ việc lúc này đã thực sự trở nên
nghiêm trọng, đối tượng đang là chủ sử dụng đầm bị cưỡng chế phút chốc
trở thành tội phạm sử dụng vũ khí nóng chống người thi hành “công vụ”.
Tin tức được truyền đi chắc chắn nó đã được đồn thổi. Đây là lúc cần bản
lĩnh và sự trải nghiệm ở người đứng đầu lực lượng công an thành phố.
Việc điều lực lượng bổ sung xuống hiện
trường để trấn áp “tội phạm” là cần thiết. Nhưng vừa nhận tin dồn dập về
thương vong, về hiện trường, lại phải tập hợp các đồng chí trong ban
giám đốc và các phòng ban chức năng, rồi còn phải báo cáo xin chỉ thị
của cơ quan cấp trên, không biết các “bộ não” đang sử dụng con chíp được
lắp từ thế kỷ trước có xử lý kịp không? (câu hỏi này là của cháu tôi).
Tới nửa buổi sáng các lãnh đạo công an
thành phố lần lượt xuất hiện cùng với lực lượng hùng hậu, xe lớn, xe nhỏ
và các thiết bị mà Nông dân chúng tôi chưa bao giờ được mục kích. Phần
lớn lãnh đạo chưa đặt chân đến Cống Rộc, làm sao hiểu hết thực địa đầm
và con người của Đoàn Văn Vươn.
Thế là lại nghe báo cáo, lại hội ý, xin ý
kiến, vác loa kêu gọi, yêu cầu đối tượng bỏ vũ khí đầu hàng, triển khai
lực lượng nhích dần từng bước, thậm thà thậm thụt, áp sát mục tiêu và
đinh linh là ở đó có ba đối tượng nam và một đối tượng nữ đang cố thủ!
Ai đã biết những người trong gia đình Đoàn Văn Vươn đều hiểu, họ sẽ
hoảng hốt mà bỏ chạy, ngay khi nhìn thấy họ đã dùng súng làm bị thương
một số người.
Đại tá Ca bắt đầu làm thất vọng rất đông
người dân ở đó, khi cho phép nã đạn vào ngôi nhà đang có nghi can ẩn
lấp. Càng thất vọng hơn khi người dân chứng kiến cảnh bắt, đánh đập đàn
bà và trẻ con trước mặt mọi người. Ngay cả các đồng chí là sỹ quan mà
vẫn không can ngăn (không hiểu người dân cả nước sẽ nghĩ gì khi họ được
mục kích những cảnh này).
Nói về hiện trường, Giám đốc Ca là người
mặc áo chống đạn cầm loa chỉ đạo “tác chiến” trực tiếp và là những
người đầu tiên tiếp cận hiện trường. Phải biết hơn
ai hết, đấy không phải là nơi có hầm ngầm, bong ke cố thủ mà là nơi
sống của một gia đình lao động với quần áo, chăn màn, gường chiếu bàn tờ
tổ tiên… (chắc chắc đại tá Ca hiện nay cũng có các bức ảnh đẩy đủ nội
thất căn nhà, sau khi lực lượng công an đã làm chủ ).
Còn những cái thu được tại hiện trường,
ngoài bọc ni lông gói thuốc nhồi đạn hoa cải có thể coi là bất thường,
còn những vật khác như hai bình ga, mấy con dao phay, vài tuýp sắt, cái
bình ăc quy, cuộn dân điện, cả cái ống nhòm nếu được coi là vũ khí gây
án nguy hiểm, thì người dân Việt Nam phải dùng đồ vật bằng gỗ, hay quay
lại thời kỳ đồ đá cho an toàn!
Đoàn Văn Quý chỉ có nguyện vọng là được
ra đầu thú ở Công an thành phố, xem ra chưa hợp lý lắm. Hơn 20 ngày mà
lực lượng Công an thành phố còn chưa tìm ra được ai là chủ nhân cái máy
ủi to như con voi đã ủi nhà Đoàn Văn Quý, thì làm sao có đủ năng lực tìm
ra nơi đã bán hai bình ga (là đại lý hay bãi sắt vụn), hay như đối
tượng đã mua xăng ở đâu để tẩm bao nhiêu rơm đang phơi trải dọc một
đường dài từ ngoài vào nhà. Không biết khi Bộ vào, có tìm ra không nhỉ?
Qua những lời trả lời báo trí một, vài
ngày sau đó, Nông dân tôi cho rằng lúc đó đại tá Ca đang thăng hoa với
thắng lợi về một trận đánh “đẹp”, vượt qua những tình thế chưa bao giờ
có trong “giáo án” . Chắc chắn những báo cáo đầu tiên với các cơ quan
cấp trên, là những đánh giá đủ làm an lòng cấp trên về cách thức xử lý
của Công an thành phố.
Nhưng với những người dân Tiên Lãng đây
là một một chấn động mạnh mẽ, vượt lên trên sợ hãi là tình làng nghĩa
xóm, là nỗi lo cho họ hàng, anh em, bè bạn đang sinh sống ở Hùng Thắng,
Vinh Quang (có ai bị đánh không, có ai bị bắt không, có ai hệ lụy gì
không?). Càng tìm hiểu họ càng kinh hoàng hơn với cách ứng xử của công
an và quan chức địa phương nơi đây. Có lẽ ngay lúc đó Lê Văn Hiền và
lãnh đạo huyện Tiên Lãng đã hiểu dư luận quần chúng nhân dân trong huyện
đang không ủng hộ họ.
Cùng chung các tâm trạng với người dân
là các nhà báo, nhưng họ nhạy cảm hơn. Họ đã cảm giác được những bất
thường trong các câu trả lời quanh co của quan chức huyện, của các quan
chức thành phố trong các cuộc họp báo vội vàng.
Khi lãnh đạo thành phố nhận ra sự phức
tạp của sự việc, thay cho việc nhìn thẳng vào sự thật để có những ứng xử
thích hợp, họ chọn giải pháp bưng bít thông tin, đưa ra những lời ngụy
biện dối trá. Bằng chứng là thông qua việc gặp gỡ các cơ quan thông tin,
báo chí địa phương của bí thư Thàng ủy chiều 19/1/2012, và trả lời báo
trí tại Hà Nội ngày 17/1/2012 của phó chủ tịch thành phố, phát ngôn của
giám đốc công an trên truyền hình Hải Phòng cùng ngày.
“Đường đi hay tối, nói dối hay cùng”.
Tại sao đến nay có người còn không hiểu trong thời đại công nghệ này,
người dân cũng có thể sử dụng các thiết bị hiện đại, để tự bảo vệ mình.
Chính sự tráo trở, lừa đảo của các quan tham đã dạy cho họ phải làm như
vậy.
Khi xem các bản tin thời sự được phát
tối ngày 5/1/2012, Nông dân tôi phải ngả mũ “kính phục” khả năng “tưởng
tượng” của những lời bình được phát đi khi ấy! Ôi! cái mồm đẹp, sao lại
văng ra được những điều điêu ngoa đến thế.
Bổ sung (sáng 4/2/2012):
Trong một comment Nông dân được
AnhBaSam tấn phong là thổ công của huyện Tiên Lãng, hôm nay xin nêu ý
kiến nhỏ liên quan tới Đất.
Đúng là đất trong khu đầm của Đoàn Văn
Vươn tại thời điểm HIỆN NAY là đất nông nghiệp. Nhưng khi nghe “đối
chất” của nguyên chủ tịch huyện Lưu Quang Yên và GS Đặng Hùng Võ trên
đài tiếng nói VN, Nông dân tôi thiển nghĩ.
– Đặc điểm
bãi bồi cửa sông, ven biển Tiên Lãng; khi triều cường là một BIỂN NƯỚC
với lơ thơ vài ngọn cây sú vẹt, lúc triều rút là BÃI PHÙ SA NON mênh
mông, dưới gốc các cây sú vẹt có chăng là một vài đụm cỏ, hay số cụm cây
muống biển. Khi đó các bác đưa nó vào đất loại gì?
- Chi phí đắp
và giữ được đê bao và cống điều tiết nước cho 10 đến 15ha, gần bằng
phần đầu tư cho một khu đầm 40 – 50ha trên vùng bãi triều lúc này, vậy
các bác có định phân hạn mức không?
- Nếu hình
thành được bờ ĐÊ BAO, có cống để điều tiết nước, lượng phù sa trong khu
vực sẽ được đông kết và bồi đắp rất nhanh. Chỉ cần 3 đến 5 năm sau một
khu đầm nuôi trồng thủy sản được hình thành, lúc này nó trở thành đất
nông nghiệp chưa?
Khu đầm Đoàn Văn Vươn và phần đông của
các hộ nuôi trồng thủy sản khác ở huyện Tiên Lãng 20 năm lại đây nó đã
trải qua sự trở mình như thế. Công lao ấy là của các hộ nông dân này.
Các thành phần kinh tế khác có tham gia không? Xin thưa là có, nhưng nó
đều phá sản hoặc sắp phá sản như dự án của tổng đội thanh niên xung
phong Hải Phòng hoặc khu Nuôi trồng thủy sản Việt Mỹ ở xã Tiên Hưng. Mỗi
nơi cũng kịp giải ngân vài chục tỷ!
Tại sao lãnh đạo Hải Phòng và huyện Tiên
Lãng khi thu hồi không bồi hoàn? Họ vin vào việc các hộ khi nhận quyết
định giao đất, đã biết điều khoản như thế. Cộng thêm “ưu tiên” 7 năm các
chủ đầm không phải đóng khoản nào.
Xin thưa, người nông dân không phải là
nhà kinh tế, họ chỉ có tình yêu đất (họ đau khổ khi nhìn thấy vùng đất
mình có thể khai thác được, mà bị bỏ hoang).
Huyện cũng không ban ơn cho các chủ đầm 7 năm không phải đóng thuế vì điều này được ghi trong luật thuế của nhà nước “Miễn thuế khoai hoang dùng vào sản xuất …. Riêng đối với đất khai hoang ở miền núi, đầm lầy và lấn biển : 7 năm“.
Huyện cũng không ban ơn cho các chủ đầm 7 năm không phải đóng thuế vì điều này được ghi trong luật thuế của nhà nước “Miễn thuế khoai hoang dùng vào sản xuất …. Riêng đối với đất khai hoang ở miền núi, đầm lầy và lấn biển : 7 năm“.
Khi các đầm được ổn định đi vào khai thác, cả chủ đầm và quan chức chính quyền huyện đều giật mình.
Các chủ đầm thấy thời gian giao đất của
mình sắp hết. Cộng chi phí đắp, bồi trúc đê hàng năm và các chi phí tạo
lập cơ sở hạ tầng quá lớn. Khi không phải đối phó với sóng biển thì sóng
“Nợ” sẽ đổ ập xuống gia đình họ.
Các quan không làm nhưng tiếc của trời.
Vì nếu tính theo mức thuế của đất nông nghiệp tối đa không quá 2 triệu
VND (theo hạng đất này), thế thì là quá thấp nếu tính theo thu nhập từ
nguồn lợi thủy sản? Nếu đem ra đấu thầu sẽ có khoản thu lớn cho cả ngân
sách và cho cả các túi quan. Họ cố quên rằng cái tiền ấy là tài sản của
các chủ đầm cũ.
Cách đây hơn 10 năm người viết phản hồi
(bài) này đã từng chỉ ra cái phi lý cho phòng Nông nghiệp và phó chủ
tịch huyện lúc đó là ông Vũ Minh Đức. Với quan điểm “Các anh phải
biết, từ bãi bồi trở thành khu đầm nuôi trông thủy sản hoặc đất trồng
trọt không phải là quá trình tự nhiên. Khi các anh thu phải trả cho các
chủ đầm tiền tạo lập đê và tiền đầu tư vào cơ sở hạ tầng đúng theo thực
tế và luận chứng kinh tế mà các anh đã duyệt. Tất nhiên phải trừ đi các
khoản hỗ trợ của nhà nước (nếu có )”. Ngay lúc đó Nông dân tôi đã biết, mình đã nói với hai đầu gối.
Các phát biểu khác của nguyên, đang là lãnh đạo huyên Tiên Lãng tôi xin bình luận sau.
Câu hay nhất của bài này:
Trả lờiXóa",,,người dân cũng có thể sử dụng các thiết bị hiện đại, để tự bảo vệ mình. Chính sự tráo trở, lừa đảo của các quan tham đã dạy cho họ phải làm như vậy"
CQ đánh ông Vươn là người Công giáo mà không sợ vụ thái Hà, HN nhỉ.
có cảnh trấn áp,đánh đập đàn bà và trẻ em ??? Công an, Sỹ quan QĐ đều đứng đó, hoá ra quá ư như bọn Mỹ nguỵ à ? không tin nổi.